Quy thức kiến trúc nhà gỗ cổ Việt Nam là một trật tự hoặc là các quy định thống nhất về kích thước, những tương quan tỷ lệ giữa các chi tiết, các thành phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc nhà gỗ cổ điển của Việt Nam với những quy tắc riêng biệt và điển hình đã được người Việt sử dụng trong lịch sử Việt Nam. Phong cách của một ngôi nhà gỗ sẽ được đánh giá là thể hiện tài hoa, tri thức và truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam.
Nét đặc trưng nhà gỗ:
Có 3 nét đặc trưng của kiến trúc nhà gỗ cổ Việt Nam làm ta phân biệt trong nền kiến trúc nhà gỗ cổ phương Đông:
- Dốc mái nhà thẳng
- Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên
- Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới
Nếu so sánh với thức kiến trúc nhà gỗ cổ Trung Quốc sẽ thấy được sự khác nhau:
- Dốc mái võng xuống
- Đỡ mái hiên bằng hệ đấu-củng (còn gọi là “con sơn chồng đấu” hoặc “chồng đấu tiếp rui”)
- Cột thanh mảnh, tròn đều
Nhà gỗ
Mái nhà
Tàu đao quật ở góc mái, gắn thêm con náp và hàng gạch hoa chanh dọc bờ guột, chùa Dận, Bắc Ninh
Chùa Hộ, tòa nhà hai mái lộ hồi với trang trí bờ nóc với con kìm, chùa Keo, Thái Bình
Triền mái của kiến trúc nhà gỗ cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát, lấy cảm hứng từ mũi thuyền của nền văn hóa sông nước. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình, nhất là đối với mái đình. Góc mái tức “tàu đao” làm cong uốn ngược, còn được gọi là đao quật.
Trong khi đó kiến trúc nhà gỗ Trung Hoa hay nhà gỗ Nhật Bản tuy cũng mái cong chỉ hơi hếch ở góc mái còn thân mái võng xuống, dốc nhiều ở đỉnh rồi xoải dần khi xuống diềm mái.
Ngói lợp mái nhà gỗ truyền thống Việt Nam là ngói mũi hài còn gọi là ngói vẩy rồng trong khi ngói lợp Trung Hoa là ngói âm dương hay ngói ống
Đỡ mái hiên bằng kẻ, hay bảy, một thanh chéo đỡ mái hiên vươn ra bằng nguyên tắc đòn bảy rất hay
Cột nhà
Chi tiết thức cột chuẩn
Cột nhà là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa. Tiết diện của cột thường là cột thân tròn nhưng cũng có khi dùng cột vuông.
Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng
Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đố là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là “gian”. Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiển trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung thành với thức kiến trúc nhà gỗ cổ Việt Nam
Chạm khắc
Trong thức kiến trúc nhà gỗ cổ Việt Nam chạm trổ là phần rất quan trọng, nó thể hiện tinh thần công trình. So với kiến trúc Trung Hoa thích vẽ hình và sơn màu sặc sỡ, kiến trúc nhà gỗ cổ Việt Nam thường để mộc màu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có màu nâu, thích chạm trổ.
Thước Tầm
Trong thức kiến trúc nhà gỗ cổ Việt Nam, tất cả các kích thước tính của công trình đều dựa theo “thước tầm”, một cây thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ. Đây là một điều độc đáo, theo cách phân tích cái đẹp tỷ lệ thì thước tầm là modulor của kiến trúc cổ Việt Nam như modulor của kiến trúc Hy Lạp, tạo ra vẻ đẹp hình học tinh tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái với phần chân cột, sự thích hợp với người gia chủ
Tên gọi, các cấu kiện trong nhà gỗ cổ truyền Việt Nam
Khung nhà phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau:
- Cột cái: cột chính của nhà gỗ đặt ở hai đầu nhịp chính tạo chiều sâu cho gian giữa. Nối hai cột cái là câu đầu.
- Cột quân hay cột con: cột phụ ngắn hơn cột cái, nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính. Khác biệt chiều cao của cột cái và cột con tạo ra độ dốc của mái nhà. Xà nách nối cột con với cột cái.
- Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước, ngắn hơn cột con. Kẻ bảy nối cột con và cột hiên.
- Xà là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm:
- Xà lòng, tức câu đầu hay chếnh: liên kết các cột cái của khung;
- Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung.
- Kẻ ngồi loại kẻ gác từ cột cái sang cột quân, trong khung;
- Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài đâm xuyên qua cột hiên để đỡ phần chân mái.
- Bảy hay bảy hậu hoặc bảy hiên: là dầm nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bảy hiên.
- Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái).
- Con rường hay chồng rường là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng lên cao các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu.
- Con lợn còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá chiêng.
- Rường cụt là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái.
Các loại xà nằm ngoài khung gồm có:
- Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái; xà này song song với chiều dài của nhà.
- Xà hạ hay xà đại, liên kết các cột cái tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái.
- Xà này cũng chạy song song với chiều dài của nhà.
- Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên trên.
- Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn.
- Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn.
- Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung.
- Thượng lương, còn gọi là đòn dông hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái.
Các kết cấu mái:
- Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà.
- Dui hay rui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành.
- Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành – dui – mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màm và lợp ngói bên trên.
- Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè.
- Ngói mũi hài hay còn gọi là ngói ta hay ngói vẩy rồng, bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa.
Các chi tiết kiến trúc khác:
- Cửa bức bàn
- Con tiện
- Dạ tàu
- Đầu đao
Kiến trúc nhà gỗ cổ truyền có thể làm theo:
Hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc,hay theo hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên), các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính. hoặc hình thức 8 mái chồng diêm.
Truyền thống người Việt thường làm theo nhà theo cơ số lẻ:
- Phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng
- Nhà 3 gian
- Nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 trái
- Nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 trái
- Nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 trái